Bông Mai Đỏ trong vườn nhà Ngọn Gió Đêm xuân Tân Mão 2011

Bông Mai Đỏ trong vườn nhà Ngọn Gió Đêm xuân Tân Mão 2011
(Blog này lưu lại một số bài thơ của Tôi đã đăng tại 1 vài diễn đàn từng thường cùng bạn hữu lui tới với các nick name: HanoiDAC, Ngongiodem, XOman, NewTime)

Thứ Ba, 16 tháng 9, 2008

SINH NHẬT TEM

SINH NHẬT TÍ TEM
Hôm nay sinh nhật tí Tem nhưng bố mẹ không tổ chức "tưng bừng" cho Tem được vì Tem bi viêm phế quản và sốt cao mấy hôm rồi. Sáng nay lại còn phải gật gù vào viện nhi từ 6h30 sáng nữa... Bố Tem đợt này cũng "lởm khởm" ho hắng chưa dứt hẳn. Mẹ Tem thì bận túi bụi vì chăm sóc 2 bố con. Bố Tem nghĩ cũng thật là thương hai mẹ con.

Tối nay sinh nhật Tem có ông bà nội, có bố mẹ, có bác Nga, cô Hiền và anh chị Khoai - Cốm cùng tới chung vui nữa. Tính cả chú gấu Pooh mà bác Chi tặng hồi chiều thì cũng vừa chẵn chục thành viên. Cũng đâu có vắng lắm.

Cô Hiền tặng Tem 1 bộ váy và áo hồng rất đẹp đúng "mốt" thu nữa. Tem thích lắm! Bố Tem cũng thích, bố cầm máy chụp hình cho Tem thiệt là nhiều. Các anh chị Khoai , Cốm thì chơi đùa với Tem tíu tít. Tem cũng thổi nến và ăn bánh gatô nhom nhem khắp mồm miệng. Tem tối nay vui lắm!

Tem tuy vẫn còn sốt nhẹ nhưng Tem nô nghịch và tươi cuời cũng ra trò. Tem chơi đùa với các anh chị "tẹt ga" chẳng có vẻ gì là ốm cả. Khi bác Nga và anh chị về, Tem còn quyến luyến đòi về theo bác nữa. Ham chơi không chứ - giống bố Tem thế! Nhưng tới khi tối đi ngủ thì thôi rồi, Tem lại khào khào ho nhiều và thở khè khè một cách khó nhọc đến tội. Thương con "khái" quá mà bố Tem cũng chẳng biết cách nào giúp con nhanh lành và mạnh khoẻ được. Đúng là chán thật!

Thôi, bố Tem viết đôi dòng này vô đây cho đỡ quên ngày kỷ niệm đặc biệt này của Tem. Chắng mong gì hơn ngoài mong con mau khoẻ, luôn vui và nhanh lớn thành một thiếu nữ sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội (nghe có vẻ khẩu ngữ quá nhỉ!) Thôi thì mong con mau lớn chăm ngoan học giỏi và biết nghe lời ông bà, bố mẹ, các bác, các cô, các chú... là OK rồi!Chúc con "khái" ngủ ngon!

BB!

Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2008

MÙA THU

CẢM XÚC MÙA THU

Thu cựa mình tỉnh giấc
Xanh hanh một khoảng trời
Trong lành quá em ơi
Ánh vàng rơi thật khẽ

Gió lướt êm nhè nhẹ
Lén đưa hoa sữa về
Phố hoe bay lá phượng
Xập xoè trong mắt ai

Tóc mây ngả bờ vai
Nét thu thì phấn chấn
Chợt tình như định mệnh
Tan thấm dần vào thơ...

(Ngọn Gió Đêm 14/9/2008)


MỘT CHIỀU THU NHỚ BIỂN

Thu về nỗi nhớ lên men
Hương say hối thúc thêm thèm vần thơ
Nắng vàng hoe sắc mộng mơ
Chiều hanh mây xám hững hờ ngóng ai
Biển xanh nén tiếng thở dài
Sóng thương bờ cát vỗ hoài ngàn năm...

(Ngọn Gió Đêm 14/9/2008)

Thứ Ba, 9 tháng 9, 2008

KHÔNG ĐỀ

THƠ ỐM

Mấy hôm khật khật khừ khừ
Hồn thơ rệu rã, câu từ chung chiêng
Lờ mờ dõi bóng chim khuyên
Ánh dương qua ngõ thêm nghiêng góc trời.

Muốn yêu thơ quá đi thôi
Mà thơ vời vợi xa rời tầm tay
Một ngày sùi sụt mưa bay
Hắt hơi, húng hắng, mới hay chữ tình... (情)

Làm thơ chẳng hẳn cho mình
Thơ làm cây cỏ quanh mình nở hoa.
(Ngọn Gió Đêm 9/9/2008)


CẢM XÚC MỘT NGÀY ĐẦU THÁNG 9

Hỏi em đã có khi nào
Lặng nghe tiếng nhạc mà xao xuyến lòng
Nương theo cung bậc thăng trầm
Xót xa luyến khúc huyền cầm vô thanh...

Một thời huyên thảo còn xanh
Một thời trau chuốt mộng lành tặng trao
Một thời thi phú tri giao
Một thời hương sắc hư hao một thời...

Hỏi em... có hiểu lòng tôi
Chữ thương chữ nhớ ghép đôi bao lần
Chữ hoài ngỡ vẫn ngay gần
Mà qua năm tháng có phần nhạt xa...

Tử Kỳ chẳng gặp Bá Nha
Chắc chi mệnh yểu hồn sa cửu tuyền
Thất cầm hẳn vẫn còn nguyên
Trăm năm vẫn mãi lưu truyền khúc Dao

Một ngày thu nhược tâm hao
Đôi dòng lưu bút lao xao luyến trần
Chỉ là câu chữ ái ân
Tương tư khuyết một góc sân tím trời...

-Ngọn Gió Đêm 2/9/2008 -

Thứ Năm, 4 tháng 9, 2008

CHÙM THƠ VUI TẶNG VỢ & TÍ TEM

Còn hơn chục ngày nữa là tới ngày sinh nhật Tí Tem. Bố gom mấy bài thơ viết tặng hai mẹ con vào đây cho gọn. Khi nào rảnh đọc lại chơi cho vui! Mong con gái mau lớn.


Bài 1
CHUYỆN VỀ TÍ TEM

"Đặt tên con nhé!"
"Tên gì tuỳ em!"
"Vậy thôi em đặt
Con là Tí Tem"
...

Tí Tem Tuổi Tuất
Thật giống cún con
Đôi mắt xoe tròn
Hay cười nhắm tịt .

“Tem yêu ai nhất?”
"Ông nhội ?” hay chiều
“Mẹ Hạnh ?” cũng yêu
“Pố!” Tem yêu nhất!

Cái gì Tem thích
Tem chẳng ngại đâu,
Nếu không ai cản
Tem chơi thật lâu.

Tem ăn hay ói
Dù ăn chẳng nhiều
Bố Tem lo lắng
Mẹ thì buồn thiu…

Tí Tem hay nói,
Hát được mấy câu
“Con vịt cạc cạc…
Bà ơi… đâu rồi…”

Tí Tem ham chơi
Khuya rồi vẫn thức
Mẹ Tem có giục
Tem oà khóc ngay...

Bố thường ngồi máy (PC)
Tem cũng theo liền
Con chuột xanh đỏ
Tem đòi chẳng yên.
...

Chuyện về Tem Tí,
Vui ơi là vui !
Nhưng chẳng kể nữa
Vì Tem đói rồi!...

Bye Bye! cô chú,
Tem đi ngủ thôi!
(Ngọn Gió Đêm 11/3/2008)


Bài 2
CẢ NHÀ CÙNG HO…

Trời bỗng chuyển tiết nồm
Cả nhà đều lụ khụ,
Bố Tem thành “ông cụ”
Mẹ Tem thành “bà già”
Tem cũng giống “ông bà”
Tem cũng ho "khụ… khụ… "
(Ngọn Gió Đêm 12/3/2008)


Bài 3
CHUYỆN VUI ÔNG Ù...!

Tí Tem sợ nhất ông Ù.
Mẹ Tem sợ bố hay vù đi chơi.
Bố Tem sợ túi rỗng thôi
Ông Ù lại sợ Tem ngồi chẳng yên...
Giờ Tem ước có ông Tiên
Mỗi khi mưa đến ông liền hiện ra.
Ông Ù còn đứng ngoài nhà,
Ông Tiên ra nhắc vậy la Ù đi...
Úu... oà... mưa mãi làm chi
Úu... oà... Tem đã ngủ khì... thật ngoan!
(Ngọn Gió Đêm 7/8/2008)



Bài 4
VẪN CHUYỆN ÔNG Ù...!

Trời mưa hay có ông Ù.
Tem sợ ông lắm!... ông Ù đi đi...!
Tem ngoan, ông tới làm chi?
Tem không quấy bố, mẹ thì càng yêu...!
Ông Ù đừng có tới nhiều!
Để yên Tem hát sớm chiều tặng ông:
"Con cò... bé bé... bằng bông..."
"Mừng ngày sinh nhật... Tem không sợ Ù!"
(Ngọn Gió Đêm 7/8/2008)

Bài 5
VỢ TÔI LÀ NÀNG THƠ
(bài thơ dành tặng vợ)

Tôi có một nàng thơ
Vô hình trên trang giấy
Vợ tôi ghen lắm đấy
Nhưng vẫn đành chiều tôi.

Có những lúc buông nới
Thả hồn trong trang viết
Vợ tôi liền chì triết
“Không cưới thơ cho rồi!”

Tôi chỉ biết mỉm cười
“Nói giỡn chơi anh hả?
Anh cưới thật đấy nhá
Lúc đó đừng la anh“.

Trang thơ thật mong manh
Bỗng nhiên thành mầu nhiệm
Nàng thơ dần dần hiện
Trong sắc màu lung linh.

Tôi bối rối lặng thinh,
Ngỡ đang hoà giấc mộng
Trái tim thoáng rung động
Tôi ôm chầm lấy thơ…

Nhưng đúng chỉ là mơ
Nàng thơ liền vụt mất
Bên tôi là hiện thực
Vợ tôi là nàng thơ.


(Ngọn Gió Đêm 6/3/2008)

Thứ Ba, 2 tháng 9, 2008

KIẾN THỨC: ĐẠO & ĐỜI

Khái niệm về "TRI TÚC" trong Cao Đài Tự Điển
Tri: Biết, hiểu biết, quen biết.
Túc: đủ.

Tri túc là biết đủ, biết mình có được như thế là đủ rồi, không muốn đòi hỏi thêm.

Người tri túc là người biết an phận nên được hạnh phúc.

Người không tri túc thì luôn luôn chạy theo dục vọng, tìm đủ cách để làm thỏa mãn dục vọng, mà dục vọng thì không bờ bến, nên người không tri túc thì cảm thấy lúc nào mình cũng thiếu thốn, nên luôn luôn lo âu phiền não.

Dầu giàu sang bốn biển như Vương Khải, Thạch Sùng, hay như các vua chúa thời xưa, mà không tri túc thì vẫn cho rằng có được bao nhiêu đó chưa đủ, cần phải tìm cách chiếm đoạt thêm, đến mãn đời vẫn lo âu sầu khổ và thường phải chết trong việc làm tôi tớ cho các dục vọng của mình.

Còn như Sào Phủ và Hứa Do, nhà không lành, quần áo không đủ hai bộ, sống thanh bần nơi sằn dã mà tri túc thì thảnh thơi vui thú, an nhàn tự tại.

Sự tri túc là biết ngăn chận lòng tham lam không đáy của con người, để con người tìm thấy được hạnh phúc thực sự trong cuộc sống.

Trong sách Minh Tâm Bửu Giám, phần an phận, sách Cảnh Hành lục viết rằng:

Tri túc thường lạc, đa tham tất ưu,
Tri túc giả, bần tiện diệc lạc,
Bất tri túc giả, phú quí diệc ưu.
Tri túc thường túc, chung thân bất nhục,
Tri chỉ thường chỉ, chung thân bất sỉ.
Tỉ thượng bất túc, tỉ hạ hữu dư,
Nhược thử hướng hạ, tâm vô hữu bất túc giả.
Nghĩa là:
Biết đủ thường vui, tham nhiều tất lo âu,
Người biết đủ, nghèo hèn cũng vui,
Người không biết đủ, giàu sang cũng lo âu.
Biết đủ thì thường đủ hoài, cả đời không nhục,
Biết dừng lại thường dừng lại, cả đời không thẹn.
Sánh với trên thấy không đủ, sánh với dưới thấy có dư,
Ví bằng nhìn xuống như thế, lòng chẳng có lấy làm không đủ.

Trong sách Đạo Đức Kinh, Đức Lão Tử có viết rằng:

Danh dữ thân thục thân?
Thân dữ hóa thục đa?
Đắc dữ vong thục bệnh?
Thị cố, thậm ái tất thậm phí,
Đa tàng tất hậu vong.
Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi,
Khả dĩ trường cửu.
Nghĩa là:
Tên tuổi và thân sống, cái nào quí?
Thân sống và của cải, cái nào cần?
Được và mất, cái nào hơn?
Cho nên, yêu lắm thì hao tổn nhiều,
Cất chứa nhiều thì mất nhiều.
Biết đủ không nhục, biết dừng không nguy,
Có thể lâu dài.

Họa mạc đại ư bất tri túc,
Cữu mạc đại ư dục đắc.
Cố tri túc chi túc,
Thường túc hỹ.
Nghĩa là:
Tai họa, không cái nào lớn bằng không biết đủ,
Lỗi lầm, không cái nào lớn bằng lòng muốn được.
Cho nên, biết đủ thì đủ,
Luôn luôn đủ vậy.

“Tri túc tức là Tự tri mãn túc, tự biết mình có đầy đủ, không mong cầu thái quá.
Thiểu dục, Tri túc là hai đức tánh mật thiết với nhau. Thiểu dục: ít ham muốn; Tri túc: có bao nhiêu cũng coi là đủ, dẫu được ít lòng cũng chẳng hối hận.

Niết Bàn Kinh: Tri túc là tự biết hạnh đức mình, sở đắc của mình. Trái với Bất Tri túc là chẳng biết liệu lượng sức mình. Người Tri túc chẳng dám nhận những sự khen tặng, cúng dường, cung kính thái quá của người đời, một niềm phụng sự nết tri túc của mình. Kẻ Bất Tri túc, hạnh tu thì ít mà ngỡ rằng mình có phước đức lớn, đạo quả cao, muốn cho người đời tôn trọng mình. Bực Tỳ kheo bất tri túc như vậy phạm tội nặng là tội ba-la-di (tội nặng nghiêm trọng trong giới luật).

Phật giáo Di kinh: Nếu muốn thoát khỏi mọi sự khổ não nên quán tưởng lẽ Tri túc. Cái phép Tri túc là thấy mình giàu có, vui vẻ, an ổn. Người Tri túc dầu nằm trên đất cũng vẫn an vui. Kẻ Bất Tri túc dầu ở cảnh Thiên đường cũng chẳng vừa ý. Kẻ Bất Tri túc tuy giàu mà nghèo; người Tri túc tuy nghèo mà giàu. Kẻ Bất Tri túc thường bị năm mối tham dục (sắc, thinh, hương, vị, xúc lôi kéo. Người Tri túc trông thấy mà thương xót giùm.” (Trích trong Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn)

NHÂN NGÀY NGHỈ LỄ - TÌM ĐỌC LẠI CÁC ĐIỂN TÍCH CỔ

BÁ NHA - TỬ KỲ

Bá Nha và Tử Kỳ là đôi bạn tri âm thời Xuân Thu Chiến Quốc. Bá Nha làm quan, Tử Kỳ là tiều phu. Do đó, nơi bao lơn Tòa Thánh có đắp bức tranh Bá Nha - Tử Kỳ để tượng trưng TIỀU, một trong Tứ Dân Tứ Thú.
* Bá Nha họ Du tên Thụy, người ở Sính Ðô nước Sở (nay là phủ Kinh Châu, tỉnh Hồ Quảng). Tuy là người nước Sở, nhưng làm quan cho nước Tấn, chức Thượng Ðại Phu.
* Tử Kỳ, họ Chung tên Huy, nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mã Yên, ở cửa sông Hán Dương, là một danh sĩ ẩn dật, báo hiếu cha mẹ tuổi già nua, làm nghề đốn củi


Một hôm, Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua Sính Ðô nước Sở, vào triều kiến vua Sở, trình quốc thư và giải bày tình giao hiếu giữa hai nước, được vua Sở và quần thần thiết tiệc khoản đãi. Bá Nha nhơn dịp nầy đi thăm mộ phần tổ tiên, thăm họ hàng, xong vào từ biệt vua Sở trở về nước Tấn.
Khi thuyền trở về đến cửa sông Hán Dương, nhằm đêm Trung Thu, trăng sáng vằng vặc, phong cảnh hữu tình, Bá Nha cho lịnh cắm thuyền dưới chân núi Mã Yên để thưởng ngoạn. Cảm thấy hứng thú, muốn dạo chơi một vài khúc đàn, Bá Nha liền sai quân hầu lấy chiếc lư ra, đốt hương trầm xông cây dao cầm đặt trên án. Bá Nha trịnh trọng nâng đàn, so dây vặn trục, đặt hết tâm hồn đàn lên một khúc réo rắt âm thanh, quyện vào khói trầm, chưa dứt, bỗng đàn đứt dây.
Bá Nha giựt mình tự nghĩ, dây đàn bỗng đứt thế nầy ắt có người nghe lén tiếng đàn, bèn sai quân hầu lên bờ tìm xem có ai là người nghe đàn mà không lộ mặt. Quân hầu lãnh lịnh lên bờ thì bỗng có người từ trên bờ lên tiếng:
- Xin đại nhân chớ lấy làm lạ, tiểu dân là tiều phu kiếm củi về muộn, trộm nghe được khúc đàn tuyệt diệu của Ngài.
Bá Nha cười lớn bảo:
- Người tiều phu nào đó dám nói hai tiếng nghe đàn với ta, sao ngông cuồng thế?
- Ðại nhân nói sai quá vậy. Há chẳng nghe: Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín (Một ấp 10 nhà ắt có nhà trung tín). Nếu đại nhân khinh chỗ quê mùa không người biết nghe đàn, thì cũng không nên có người khảy lên khúc đàn tuyệt diệu.
Nghe đáp xong, Bá Nha hơi choáng váng, hối hận những lời vừa thốt ra, vội bước ra mũi thuyền, dịu giọng nói:
- Người quân tử ở trên bờ, nếu thực biết nghe đàn, biết vừa rồi ta khảy khúc gì không?
- Khúc đàn đại nhân vừa tấu đó là: Ðức Khổng Tử khóc Nhan Hồi, phổ vào tiếng đàn, lời rằng:

Khá tiếc Nhan Hồi yểu mạng vong,
Dạy người tư tưởng tóc như sương.
Ðàn, bầu, ngõ hẹp vui cùng đạo,
Ðến cuối câu ba thì dây đàn đứt, còn lại câu bốn là:
Lưu mãi danh hiền với kỹ cương.

Bá Nha nghe xong, đúng quá, mừng rỡ sai quân hầu bắc cầu lên bờ mời người quân tử xuống thuyền đàm đạo.
Người tiều phu ung dung xuống thuyền, chấp tay vái Bá Nha. Bá Nha vội đưa tay đáp lễ, nói:
- Xin quí hữu miễn lễ cho.
Rồi bắc ghế mời ngồi, phân ngôi chủ khách.
- Quí hữu biết nghe đàn, ắt biết ai chế ra đàn?
- Mong ơn Ngài hỏi tới, kẻ tiểu dân đâu chẳng dám nói hết cái biết của mình.

Khi xưa, vua Phục Hy thấy tinh hoa của năm vì sao rơi xuống cây ngô đồng, chim phượng hoàng liền đến đậu. Vua Phục Hy biết ngô đồng là gỗ quí, hấp thụ tinh hoa Trời Ðất, có thể làm đồ nhã nhạc, liền sai người đốn cây ngô đồng xuống, cắt làm ba đoạn để phân Thiên, Ðịa, Nhơn. Ðoạn ngọn thì tiếng quá trong mà nhẹ, đoạn gốc thì tiếng quá đục mà nặng, duy đoạn giữa thì tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được, liền đem ra giữa dòng sông nước chảy ngâm 72 ngày đêm, rồi lấy lên phơi khô, chọn ngày tốt, thợ khéo Lưu Tử Kỳ chế làm nhạc khí, bắt chước nhạc Cung Dao Trì, đặt tên là Dao cầm.

Dao cầm nầy dài 3 thước 6 tấc, án theo 360 độ chu Thiên , phía trước rộng 8 tấc án theo Bát tiết, sau rộng 4 tấc án theo Tứ Tượng, dầy 2 tấc án theo Lưỡng Nghi, đầu như Kim đồng, lưng như Ngọc Nữ, trên chạm Long Phụng, gắn phím vàng trục ngọc. Ðàn ấy có 12 phím tượng trưng 12 tháng, lại thêm một phím giữa tượng trưng tháng nhuận, trên mắc 5 dây, ngoài tượng Ngũ Hành, trong tượng Ngũ Âm: Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ.

Vua Thuấn khảy Dao cầm, ca bài Nam phong, thiên hạ đại trị.
Vua Văn vương bị Trụ vương giam cầm nơi Dũ Lý, con trưởng Bá Ấp Khảo thương nhớ không nguôi, nên thêm một dây nữa gọi là dây Văn (Văn huyền), đàn nghe thêm ai oán.
Võ vương đem quân phạt Trụ, thêm vào Dao cầm một dây phấn khích gọi là dây Võ (Võ huyền).
Như thế, Dao cầm lúc đầu có 5 dây, sau thêm 2 dây Văn và Võ nữa thành 7 dây, gọi là Thất huyền cầm.

Ðàn ấy có Sáu kỵ, Bảy không, Tám tuyệt, kể ra:
* Sáu Kỵ là: Rét lớn, nắng lớn, gió lớn, mưa lớn, sét lớn, tuyết rơi nhiều.
* Bảy Không là: Nghe tiếng bi ai và đám tang thì không đàn, lòng nhiễu loạn thì không đàn, việc bận rộn thì không đàn, thân thể không sạch thì không đàn, y quan không tề chỉnh thì không đàn, không đốt lò hương thì không đàn, không gặp tri âm thì không đàn.
* Tám Tuyệt là: Thanh cao, kỳ diệu, u uất, nhàn nhã, bi đát, hùng tráng, xa vời, dằng dặc.
Ðàn ấy đạt đến tận thiện tận mỹ, hổ nghe không kêu, vượn nghe không hú, một thứ nhã nhạc tuyệt vời vậy.

Bá Nha nghe xong , kính phục bội phần, hỏi thêm:
- Quí hữu quả thấu triệt nhạc lý. Khi xưa, Ðức Khổng Tử đang khảy đàn, Nhan Hồi từ ngoài bước vào, thoảng nghe tiếng đàn u trầm, nghi là có ý tham sát, lấy làm lạ, liền hỏi Ðức Khổng Tử. Ngài đáp: Ta đang khảy đàn, bỗng thấy mèo bắt được chuột, liền khởi lên ý niệm tham sát mà hiện ra tơ đồng.
- Nhan Hồi đã nghe tiếng đàn mà biết lòng người khảy đàn. Nay Hạ quan khảy đàn, lòng tư lự điều gì, quí hữu có thể đoán biết chăng?
- Ðại nhân thử dạo một khúc xem.
Bá Nha nối lại dây đàn, tập trung tinh thần đến chốn non cao, khảy lên một khúc. Tiều phu khen rằng:
Ðẹp thay vòi vọi kìa, chí tại non cao.
Bá Nha ngưng thần, ý tại lưu thủy, khảy lên một khúc nữa. Tiều phu lại khen rằng:
Ðẹp thay, mông mênh kìa, chí tại lưu thủy.
Bá Nha thấy tiều phu đã thấy rõ lòng mình qua tiếng đàn, lấy làm kính phục, liền gác đàn, sai bày tiệc rượu, đối ẩm luận đàm. Hai người hỏi nhau tên họ, nguyên quán, nghề nghiệp. Bá Nha lại sanh lòng cảm mến Tử Kỳ về sự hiếu với phụ mẫu, nên xin kết nghĩa anh em với Tử Kỳ, để không phụ cái nghĩa TRI ÂM mà suốt đời Bá Nha chưa từng gặp.

Hai người đến trước bàn hương án lạy Trời Ðất, rồi lạy nhau 8 lạy kết làm anh em. Tử Kỳ nhỏ hơn Bá Nha 10 tuổi nên làm em. Hai anh em đối ẩm cùng nhau tâm sự mãi cho đến sáng mà không hay. Tử Kỳ vội đứng lên từ biệt.
Bá Nha bùi ngùi xúc động, hẹn ước Tử Kỳ, đúng ngày Trung Thu năm sau, hai anh em sẽ hội ngộ nhau tại ghềnh đá nầy. Bá Nha lấy ra hai đỉnh vàng, hai tay nâng lên nói:
- Ðây là chút lễ, kính dâng bá phụ và bá mẫu. Tấm tình chí thành, em đừng từ chối.
Hai người từ biệt, lòng đầy lưu luyến.
Chẳng bao lâu, thuyền về tới bến. Bá Nha vào kinh đô tâu trình Tấn Vương các việc, được Tấn vương khen tặng.
Thời gian lặng lẽ trôi qua. . . Nhớ ngày ước hẹn với Tử Kỳ, Tử Nha tâu xin vua Tấn cho nghỉ phép về thăm quê nhà.
Bá Nha thu xếp hành trang đến núi Mã Yên kịp ngày Trung Thu ước hẹn. Kìa là núi Mã Yên mờ mờ sương lạnh, tịch mịch, không một bóng người. Bá Nha nghĩ thầm, năm trước nhờ tiếng đàn mà gặp được tri âm, đêm nay ta phải đàn một khúc để gọi Tử Kỳ. Rồi sai đốt hương trầm, đem Dao cầm ra so dây. Bá Nha đặt hết lòng nhớ nhung của mình vào tiếng đàn réo rắt, bỗng trong tiếng đàn lại có hơi ai oán nổi lên. Bá Nha dừng tay suy nghĩ: Cung Thương có hơi ai oán thảm thê, ắt Tử Kỳ gặp nạn lớn. Sáng mai ta phải lên bờ dọ hỏi tin tức về Tử Kỳ.
Ðêm ấy, Bá Nha hồi hộp lo âu, trằn trọc suốt đêm, chờ cho mau sáng, truyền quân hầu mang theo Dao cầm, 10 đỉnh vàng, vội vã lên bờ, tiến vào núi Mã Yên. Khi qua cửa núi, gặp ngã ba đường, chưa biết nên đi đường nào, đành ngồi chờ người trong xóm đi ra hỏi thăm. Không bao lâu, gặp một lão trượng tay chống gậy, tay xách giỏ, từ từ đi lại. Bá Nha thi lễ, hỏi:
- Xin lão trượng chỉ giùm đường đi Tập Hiền Thôn?
- Thượng quan muốn tìm nhà ai?
- Nhà của Chung Tử Kỳ.
Vừa nghe 3 tiếng Chung Tử Kỳ, lão trượng nhòa lệ, nói:
- Chung Tử Kỳ là con của lão. Ngày Trung thu năm ngoái, nó đi đốn củi về muộn, gặp quan Ðại Phu là Du Bá Nha kết bạn tri âm. Khi chia tay, Bá Nha tặng hai đỉnh vàng, nó dùng tiền nầy mua sách học thêm, ngày đi đốn củi, tối về học sách, mãi như vậy, sức khỏe hao mòn, sanh bệnh rồi mất.
Bá Nha nghe vậy thì khóc nức nở, thương cảm vô cùng. Lão trượng ngạc nhiên hỏi quân hầu thì biết thượng quan đây chính là Du Bá Nha, bạn tri âm của Chung Tử Kỳ. Chung lão biết vậy lại càng bi thảm hơn nữa nói:
- Mong ơn thượng quan không chê con lão hàn tiện. Lúc mất, nó dặn rằng: Con lúc sống không vẹn niềm hiếu dưỡng, lúc chết không vẹn nghĩa tri giao, xin cha chôn con nơi cửa núi Mã Yên để thực hiện lời ước hẹn với quan Ðại Phu Bá Nha.
Lão phu y lời con trối lại. Con đường mà thượng quan vừa đi qua, bên phải có một nấm mộ mới, đó là mộ của Tử Kỳ. Hôm nay là đúng 100 ngày, lão mang vàng hương ra cúng mộ.
- Việc đời biến đổi, may rủi không lường. Xin Lão bá đưa đến mộ Tử Kỳ, bốn lạy cho vẹn tình tri kỷ.

Khi đến phần mộ, Bá Nha sửa lại áo mũ, sụp lạy khóc rằng: Hiền đệ ơi, lúc sống thông minh anh tuấn tuyệt vời, nay chết, khí thiêng còn phảng phất, xin chứng giám cho ngu huynh một lạy ngàn thu vĩnh biệt.
Lạy xong, Bá Nha phục bên mồ, khóc nức nở. Sau đó, Bá Nha gọi mang Dao cầm tới, đặt lên phiến đá trước mộ, ngồi xếp bằng trên mặt đất một cách nghiêm trang, so dây tấu lên một khúc nhạc thiên thu, tiễn người tri âm tài hoa yểu mạng. Bỗng thấy gió rừng thổi mạnh, mây đen kéo lại, u ám bầu trời, hồi lâu mới tan. Có lẽ đó là anh hồn của Tử Kỳ hiển linh chứng giám. Tấu khúc nhạc xong, Bá Nha phổ lời ai oán, thay lời ai điếu, vĩnh biệt bạn tri âm, rồi đến vái cây Dao cầm một vái, tay nâng đàn lên cao, đập mạnh vào phiến đá trước mộ Tử Kỳ, đàn vỡ tan nát, trục ngọc phím vàng rơi lả tả.
Chung lão không kịp ngăn, sợ hãi nói rằng:
- Sao đại quan hủy cây đàn quí giá nầy?
Bá Nha liền ngâm 4 câu thơ thay câu trả lời:
Dao cầm đập nát đau lòng phượng,Ðàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai?Gió Xuân khắp mặt bao bè bạn,Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay!
- Nguyên do là vậy. Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật cao siêu. Nhân đây, xin mời thượng quan đến nhà lão để lão cảm tạ tấm lòng tốt đẹp của thuợng quan đối với con lão.
- Cháu quá bi thương, không dám theo bá phụ về quí phủ e gợi thêm nỗi đau lòng. Nay nghĩa đệ vắng số mất rồi, cháu kính dâng lên bá phụ và bá mẫu 10 đỉnh vàng, một nửa dùng mua mấy mẫu ruộng làm Xuân Thu tế tự cho Tử Kỳ, một nửa xin để phụng dưỡng bá phụ và bá mẫu trong tuổi già. Chừng cháu trở về triều, dâng biểu lên vua xin cáo quan, cháu xin đến rước bá phụ, bá mẫu đến an hưởng tuổi già.
Nói xong, Bá Nha lấy vàng dâng lên, rồi khóc lạy mộ Tử Kỳ một lần nữa, mới trở về thuyền.
Chung lão cảm động không cùng, nghẹn ngào đứng lặng nhìn theo bóng Bá Nha cho đến khi khuất bóng.